Lịch sử ra đời và phát triển của vắc xin
Vắc xin là một phương pháp hữu hiệu giúp ngăn chặn rất nhiều căn bệnh truyền nhiễm và nguy hiểm. Nhiều tranh cãi đã xảy ra khi người ta muốn biết tường tận về lịch sử ra đời và phát triển vắc xin - một bước đột phá trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của loài người.
1. Truyền thuyết về vắc xin
Tương truyền rằng, vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị vua Mithridate VI đều uống một lượng nhỏ chất độc mỗi ngày để cơ thể quen dần. Ông cho rằng đây là cách để đương đầu với nguy cơ bị ám sát. Quả thật, chẳng ai tin rằng việc ấy lại có thể hiệu quả cho đến khi, về sau khi thất trận ông đã tự sát bằng uống độc và chẳng bị hề hấn gì.
Tại Trung Quốc vào khoảng thế ký thứ 10, một phái Đạo giáo có các thầy lang tay nghề giỏi đã bí mật dùng một kỹ thuật để tránh bệnh đậu mùa. Ngày xưa, đậu mùa là một căn bệnh đáng sợ hơn hết bởi lẽ nếu không giết chết bệnh nhân thì nó cũng mang lại tổn thương vĩnh viễn trên khuôn mặt với những vết sẹo rỗ. Các thầy lang này đã dùng vẩy sẹo của người bệnh (mang mầm bệnh) rồi cho vào một chiếc hộp kín, giữ ở nhiệt độ nhất định trong một thời gian để giảm độc. Sau đó, họ nghiền nhỏ vẩy này rồi thổi vào mũi của người khỏe mạnh chưa từng mắc bệnh để ngăn ngừa bệnh.
Hai câu chuyện trên đã chứng minh được cho việc "lấy độc trị độc" là điều hoàn toàn đúng đắn. Dần dần, theo thời gian, Khoa học đã hiện thực hóa và phổ biến cách thức này một cách thành công chưa từng thấy với thứ có tên gọi "vắc xin".
2. Khoa học gọi tên vắc xin lần đầu tiên
Liều vắc-xin đầu tiên được biết tới qua một vị bác sĩ người Anh Quốc - Edward Jenner. Vào năm 1796, khi Châu Âu đang oằn mình với dịch đậu mùa thì Jenner đã thí nghiệm thành công vắc xin ngừa căn bệnh này. Theo kinh nghiệm dân gian được ghi chép lại, những nông dân chuyên vắt sữa bò có thể bị nhiễm bệnh "đậu bò", nhưng sau khi khỏi bệnh thì họ lại miễn nhiễm với bệnh đậu mùa. Từ luận điểm trên, Jenner đã chiết xuất dịch từ các vết đậu bò trên cánh tay của bệnh nhân Sarah Nelmes rồi cấy dịch đó vào tay của một cậu bé đang khỏe mạnh James Phipps để Phipps có triệu chứng của bệnh đậu bò. Sau 48 ngày, khi Phipps đã khỏi hẳn bệnh thì Jenner tiêm chất có mầm bệnh đậu mùa cho cậu. Kết quả cho thấy Phipps hoàn toàn không hề hấn gì với bệnh đậu mùa! Cách làm của vị bác sĩ thời đó gây nhiều tranh cãi khi có thể gây nguy hiểm tính mạng cho cậu bé. Tuy nhiên, những tính toán kỹ lưỡng của ông đã mang tính khai phá khi đứa trẻ đã tự đề kháng được bệnh.
Thí nghiệm của E. Jenner
Sau đó 80 năm, Louis Pasteur cấy các vi khuẩn gây bệnh dịch tả tiêm cho gà để thực hiện thí nghiệm lần một. Kết quả là những con bị tiêm đều chết sạch sẽ. Tuy nhiên, Pasteur đã không bỏ cuộc khi mùa hè năm 1878, ông chuẩn bị thêm một bình dung dịch nuôi vi khuẩn dạng huyền phù rồi để đó và đi nghỉ mát. Khi quay về, ông thực hiện thí nghiệm lần 2 tương tự như lần trước thì thấy rằng bầy gà lúc này chỉ bị bệnh nhẹ rồi sau đó cùng khỏe lại, không có con nào chết cả. Ngay tức thì, Pasteur hiểu được rằng khi ông đi vắng cũng là lúc ông cho đám vi khuẩn thêm thời gian để suy yếu, biến tính đi. Qua thêm vài lần thí nghiệm nữa thì Louis Pasteur đã xác nhận các giả thuyết của Jenner và đồng thời mở lối cho ngành miễn dịch học hiện nay.
Kể từ lúc đó, các chủng ngừa đã đẩy lùi được rất nhiều bệnh: Triệt tiêu bệnh đậu mùa trên toàn cầu, bệnh bại liệt dường như biến mất, giảm đáng kể các bệnh sởi, ho gà, thủy đậu, quai bị, thương hàn,... Người ta hy vọng có thể hướng tới khả năng dùng thuốc vắc-xin để điều trị một số bệnh nan y như ung thư, AIDS,.
3. Quá trình phát hiện và sản xuất ra vắc xin
Quá trình tìm kiếm và cho ra đời vaccine của loài người được thống kê cụ thể ở bảng dưới đây:
Năm | Loại vaccine | Người đề xuất |
1796 | Vaccine đậu mùa | E.Jenner |
1880 | Vaccine bệnh than | Louis Pasteur |
1885 | Vaccine dại bất hoạt | Louis Pasteur |
1892 | Vaccine tả | Haffkine |
1896 | Vaccine tả | Kolle |
1898 | Vaccine thương hàn | Raita |
1915 | Vaccine chống hoại thư | Weinberg |
1921 | Vaccine BCG phòng lao |
L.C.A.Calmette-A.F.Mguerin |
1923 | Vaccine ho gà |
Blum-Madsen |
1926 |
Vaccine bạch hầu | G.Ramon-Glenny |
1927 | Vaccine uốn ván Ramon | Zoeller |
1932 | Vaccine sống sốt vàng | M.Theiler |
1933 | Vaccine Weil’s | Wani |
1937 | Vaccine cúm bất hoạt | Salk |
1938 | Vaccine viêm não | A.Cmorodinsov-E.Levkovich |
1940 | Vaccine dại bất hoạt | D.Semple |
1943 | Vaccine cúm sống | Francis |
1949 | Vaccine Lepto | A.Varpholomeev-G.Kovalxkii |
1953 | Vaccine bại liệt chết | Salk |
1957 -1960 | Vaccine bại liệt sống uống - Vaccine sởi sống | SabinJ.F.Enders,Yokuno,A.A.Smordints |
1967 | Vaccine quai bị bất hoạt | ev |
1968 | Vaccine viêm não mủ C | (Hoa Kỳ) |
1969 | Vaccine Rubella sống | Gotschlich |
1971 | Vaccine viêm não mủ A | (Hoa Kỳ-Bỉ) |
1974 | Vaccine Rubella sống | Gotschlich |
1978 | Vaccine viêm gan B huyết tương | Takahashi |
1979 | Vaccine Viêm phế cầu | Maufas |
1980 | Vaccine dại nuôi cấy tế bào | Austrian |
1981 | Vaccine ho gà vô bào | (Pháp – Nhật) |
1983 | Vaccine thủy đậu | Sato |
1983 | Vaccine viêm gan B tái tổ hợp - Vaccine sởi+quai bị+Rubella | TakahshiMerkCo.Ltd (Hoa Kỳ), Myanohara |
1986 | Vaccine Hib | Nhật |
1988 | Vaccine viêm gan A | Merieux |
1992 | Vaccine cộng hợp 5 thành phần DTP-IPV-Hib | |
1993 | Vaccine DPT-Hib-HepB | |
1996 | Vaccine Rota và Lyme |
4. Cơ chế hoạt động và phân loại vắc xin
4.1. Cơ chế hoạt động
Các nhà khoa học giải thích rằng, cơ chế hoạt động bắt nguồn từ hệ miễn dịch của con người đã nhận diện và "ghi nhớ" các chủng bệnh (thể nhẹ) và tiêu diệt chúng hữu hiệu. Chính vì vậy mà sau đó, các mầm bệnh "thực thụ" xâm nhập, hệ miễn dịch đã ở trong tư thế sẵn sàng loại bỏ chúng bằng cách huy động các lực lượng chống lại vật lạ và đánh thức tế bào lympho B.
4.2. Các loại vắc xin
Vaccine có thể là các vi khuẩn hoặc virus còn sống, đã được can thiệp giảm độc lực. Khi đưa vào cơ thể, chúng sẽ không gây bệnh hoặc nếu có thì cũng sẽ ở thể rất nhẹ. Bên cạnh đó, vắc xin cũng có thể là các vi sinh vật chết hoặc chỉ là những sản phẩm tinh chế từ các vi sinh vật.
Trên thế giới hiện đang phổ biến 3 loại vắc xin kinh điển:
- Vắc xin bất hoạt: Chính là các vi sinh vậy độc hại bị vô hiệu hóa bằng hóa chất hoặc nhờ nhiệt độ. Các loại vắc-xin bất hoạt hiện nay chính là chống cúm, tả, dịch hạch, viêm gan siêu vi A. Đa phần các loại thuốc này chỉ giúp đáp ứng miễn dịch ngắn hạn nên phải tiêm nhắc nhiều lần sau đó.
- Vắc xin sống: Loại này đã được giảm độc lực nhờ việc nuôi cấy vi sinh vật dưới những điều kiện đặc biệt và luôn luôn trong tầm kiểm soát. Đây là loại thuốc đáp ứng miễn dịch dài hạn và thường được dành cho người lớn khỏe mạnh để ngăn ngừa các bệnh sốt vàng, quai bị, sởi,...
- "Toxoid": các hợp chất độc bị bất hoạt và trích ra từ các vi sinh vật như các loại ngừa uốn ván, bạch hầu,.
5. Những hạn chế về hiệu quả
Tuy được ghi nhận như một liệu pháp mới và đột phá nhưng hiệu quả của vắc-xin cũng không hẳn là áp dụng hoàn toàn được cho tất cả các loại bệnh để ngừa mầm lây nhiễm triệt để. Có một số vaccine rất hiệu quả như uống ván, sởi và phải kể đến một ví dụ kinh điển là bệnh đậu mùa. Một số loại khác thì hiệu quả chỉ vào khoảng 50% và một số vắc xin đến nay vẫn chưa điều chế thành công để ngăn ngừa các bệnh như AIDS, sốt rét, ung thư,... Chính vì thế mà vắc-xin vẫn chưa thể là vũ khí vạn năng để chống lại bệnh tật cho con người.
Hơn nữa, hiệu quả của phương pháp này thật ra cũng khó đánh giá chính xác bởi kết quả nghiên cứu trên động vật không thể áp dụng hoàn toàn cho loài người. Lý thuyết cho rằng, phương pháp duy nhất để minh chứng hiệu quả là thử nghiệm trên 2 nhóm người trong đó một nhóm được tiêm chủng và một nhóm thì không rồi truyền mầm bệnh cho cả hai nhóm. Tất nhiên phương án thử nghiệm này không thể sử dụng được vì vấn đề đạo đức. Chính vì thế mà các nhà khoa học đã cải biên một chút khi cũng thực hiện chia 2 nhóm như trên nhưng thay vì truyền bệnh mà họ sẽ quan sát sự nhiễm bệnh tự nhiên của các tình nguyện viên tham gia.
Khi một loại vắc xin được nhận định rằng có hiệu quả, người ta đêm tiêm cho mọi người và theo dõi sự giảm đi của số người mắc bệnh. Tuy vậy, với cách làm này người ta cũng không thể biết hết được vai trò thực sự của vắc-xin ngay cả khi có chiều hướng giảm bệnh. Ví dụ như ở bệnh lao, vai trò của các biện pháp vệ sinh và cách ly nguồn cũng cực kỳ quan trọng.
6. Tai biến khi sử dụng
Có hai tai biến không thể coi thường khi dùng vắc-xin đó là nhiễm bệnh và các bệnh miễn dịch
6.1. Nhiễm bệnh
Khi tiêm vào vắc xin sống có thể làm giảm độc lực nhưng đồng thời cũng có thể gây bệnh cho người có hệ miễn dịch yếu kém. Nguy cơ phục hồi của các tác nhân vi sinh là hoàn toàn có thể xảy ra khi nó tìm lại được độc tính của mình. Với vaccine ngừa bại liệt, nguy cơ này là 10-7, tức là cứ 10 triệu trẻ em uống vaccine thì có 1 bé bị tai nạn. Điều kém may mắn này khó có thể ngăn cản và tỉ lệ này hoàn toàn vẫn còn mang tính rủi ro thấp. Ngoài ra, còn có nguy cơ nhiễm các tác nhân gây bệnh ngoài ý muốn do chế phẩm trong vaccine có thể được hạn chế bằng các quy trình chặt chẽ trong khâu sản xuất và bảo quản
6.2. Bệnh miễn dịch
Khi thử nghiệm vaccine phòng bệnh dại cho loài cừu thì có thấy xác suất gây EAE - một bệnh tự miễn với hệ thần kinh rơi vào khoảng 1/3000 - 1/1000. Lý do được phỏng đoán là do chiết xuất não chó đã mang theo cả những mẩu protein trong tế bào thần kinh khi tạo ra miễn dịch lúc được tiêm đã vô tình sản xuất luôn cả kháng thể chống lại cấu trúc thần kinh của chính mình.